Xem thêm
CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ:
HIV-1:
TENOXIL được chỉ định kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác để điều trị nhiễm HIV-1 ở bệnh nhân người từ 18 tuổi trở lên.
Hiệu quả của TENOXIL dựa trên kết quả của các nghiên cứu điều trị cho các bệnh nhân chưa từng điều trị trước đó, bao gồm các bệnh nhân có số lượng virus lớn (> 100.000 bản sao/ ml) và các nghiên cứu trong đó TENOXIL được dùng bổ sung vào liệu pháp điều trị cơ bản (chủ yếu là liệu pháp kết hợp 3 thuốc) cho bệnh nhân trước đó đã từng điều trị thuốc chống retrovirus nhưng thất bại (<10.000 bản sao/ml, chủ yếu là bệnh nhân có < 5.000 bản sao/ml).
Lựa chọn TENOXIL để điều trị cho những bệnh nhân đã từng điều trị thuốc chống retrovirus trước đó phải dựa trên kết quả thử nghiệm tỉnh nhạy cảm của virus và/hoặc tiền sử điều trị của bệnh nhân.
Viêm gan B mạn tính:
TENOXIL được chỉ định cho điều trị viêm gan B mạn tính ở người lớn với chức năng gan còn bù, với bằng chứng hoạt động nhân bản của vi rút, nồng độ alanin aminotransferase (ALT) tăng cao liên tục và bằng chứng mô học của viêm đang hoạt động và/hoặc xơ hóa.
Chỉ định này dựa chủ yếu trên đáp ứng mô học, vi rút học, hóa sinh & huyết thanh học ở bệnh nhân trưởng thành chưa điều trị bằng nucleosid với viêm gan B mạn tính HBeAg dương tính & HBeAg âm tính với chức năng gan còn bù.
Cách dùng – liều dùng của thuốc Tenoxil 300mg
Liệu pháp nên được thiết lập bởi 1 bác sĩ có kinh nghiệm trong điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV.
Với các trường hợp bệnh nhân không nuốt được thuốc, TENOXIL có thể được sử dụng dưới dạng hòa tan viên nén trong ít nhất 100 ml nước, nước cam ép hoặc nho ép.
Người lớn:
Liều đề nghị là uống 300 mg (1 viên) 1 lần/ngày cùng với bữa ăn.
Trẻ em:
TENOXIL không được đề nghị cho bệnh nhân trẻ em dưới 18 tuổi do thiệu các dữ liệu về độ an toàn và hiệu quả cho đối tượng này.
Người già: Không có các dữ liệu về liều dùng cho bệnh nhân trên 65 tuổi.
Bệnh nhân suy thận:
Tenofovir được bài tiết qua thận và tăng tích lũy tenofovir khi bệnh nhân suy thận. Cần điều chỉnh khoảng cách liều dùng cho những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin <50 ml/phút, chi tiết như sau:
Việc điều chỉnh liều dùng cho bệnh nhân suy thận dựa trên các dữ liệu hạn chế và có thể là chưa phải là tối ưu nhất. Độ an toàn và hiệu quả của các hướng dẫn điều chỉnh liều dùng này chưa được đánh giá trên lâm sàng. Do vậy, các đáp ứng trên lâm sàng với việc điều trị và chức năng thận nên được theo dõi chặt chẽ trên những bệnh nhân suy thận:
|
Độ thanh thải creatinin (ml/phút)* |
Bệnh nhân thẩm tách máu |
|
30 – 49 |
10-29 |
|
Khoảng cách liều dùng ( liều 300mg TENOXIL-300) |
Mỗi 48 giờ |
Mỗi 72-96 giờ |
Mỗi 7 ngày sau khi kết thúc thẩm tách máu** |
* Tính toán dựa trên trọng lượng cơ thể trung bình.
** Nhìn chung, liều dùng 1 lần/tuần trong trường hợp thẩm tách máu 3 lần/tuần, mỗi lần khoảng 4 giờ hoặc sau tổng 12 giờ thẩm tách máu.
Không có liều đề nghị cho bệnh nhân có độ thanh thải creatinin < 10 ml/phút.
|
Bệnh nhân suy gan: Không yêu cầu điều chỉnh liều dùng cho bệnh nhân suy gan.
Không dùng thuốc Tenoxil 300mg trong trường hợp sau
Olanxol 10mg
Bạn đang muốn tìm hiểu về thuốc Olanxol 10mg được chỉ định...
300.000₫
TENOXIL chống chỉ định cho bệnh nhân mẫn cảm với hoạt chất hoặc bất cứ thành phần nào của thuốc.
Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc Tenoxil 300mg
Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng nếu cần thêm thông tin xin hỏi ý kiến thầy thuốc.
Thuốc này chỉ dùng theo sự kê toa của thầy thuốc.
Để thuốc xa tầm với của trẻ em.
TENOXIL không được sử dụng cùng với bất cứ thuốc nào khác có chứa tenofovir disoproxil fumarat.
Tenofovir disoproxil fumarat chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân dưới 18 tuổi.
Tenofovir chủ yếu được bài tiết qua thận. Tích lũy tenofovir có thể tăng với bệnh nhân suy thận trung bình và nặng (độ thanh thải creatinin < 50 ml/phút) sử dụng liệu tenofovir disoproxil 300 mg (ở dạng fumarat) mỗi ngày. Do vậy cần phải điều chỉnh liều dùng cho bệnh nhân có độ thanh thải creatinin < 50ml/phút. Cần theo dõi cẩn thận các dấu hiệu ngộ độc, như xấu thêm tình trạng suy thận, nhưng cũng có thể sử dụng 1 viên TENOXIL với các khoảng cách liều dùng hợp lý để điều trị HIV cho bệnh nhân suy thận. Độ an toàn và hiệu quả của TENOXIL trên bệnh nhân suy thận chưa được thiết lập.
Bệnh nhân suy thận, có thể giảm phosphat huyết, đã được báo cáo khi sử dụng tenofovir disoproxil fumarat.
Cần theo dõi chức năng thận (độ thanh thải creatinin và phosphat huyết thanh) trước khi uống TENOXIL, mỗi 4 tuần trong 1 năm đầu điều trị, và sau mỗi 3 tháng sau đó. Với những bệnh nhân có nguy cơ hay tiền sử suy thận và bệnh nhân suy thận, nên cân nhắc theo dõi chặt chẽ hơn.
Nếu nồng độ phosphat huyết thanh < 1,5 mg/dL (0,48 mmol/) hoặc độ thanh thải creatinin < 50 ml/phút, chức năng thận nên được kiểm tra lại trong vòng 1 tuần, bao gồm đo nồng độ glucose, kali trong máu và nồng độ glucose trong nước tiêu, và khoảng cách liều dùng TENOXIL phải được điều chỉnh. Cân nhắc việc ngừng điều trị cho bệnh nhân có độ thanh thải creatinin giảm thấp hơn 50 ml/phút hoặc nồng độ phosphat huyết thanh< 1,0 mg/dL (0,32 mmol)
Tenofovir disoproxil fumarat chưa được đánh giá trên bệnh nhân uống các thuốc cũng gây độc cho thận (như các aminoglycosid, amphotericin B, foscarnet, ganciclovir, pentamidin, vancomycin, cidofovir hoc interleukin-2). Tránh dùng tenofovir disoproxil fumarat kết hợp với các thuốc cũng gây độc cho thận. Nếu việc kết hợp tenofovir disoproxil fumarat và các thuốc cũng gây độc cho thận không thể tránh khỏi, chức năng thận nên được theo dõi hàng tuần.
Tenofovir disoproxil fumarat chưa được đánh giá trên lâm sàng với bệnh nhân đang sử dụng thuốc được bài tiết qua thận bởi cùng 1 yếu tố vận chuyển (hOTAI- yếu tố vận chuyển anion hữu cơ 1) (như adefovir dipivoxil, cidofovir là các yếu tố đã biết gây độc cho thận). Yếu tố vận chuyển này (HOATI) có thể chịu trách nhiệm bài tiết qua ống thận và một phần, bài tiết qua thận của tenofovir, adefovir và cidofovir. Do vậy, dược động học của các thuốc này có thể bị thay đổi nếu chúng được sử dụng đồng thời. Ở người tình nguyện khỏe mạnh, 1 liều đơn adefovir dipivoxil cùng với tenofovir disoproxil fumarat không gây tương tác đáng kể về dược động học. Tuy nhiên, độ an toàn trên lâm sàng bao gồm khả năng ảnh hưởng đến thận khi kết hợp điều trị adefovir dipivoxil và tenofovir disoproxil fumarat vẫn chưa được biết. Trừ khi thật sự cần thiết, việc kết hợp các thuốc này không được khuyến cáo, nhưng nếu không tránh khỏi thì cần theo dõi chức năng thận hàng tuần.
Trong 1 nghiên cứu có kiểm soát 144 tuần so sánh tenofovir disoproxil fumarat với stavudin trong kết hợp lamivudin và enfavirenz trong điều trị cho bệnh nhân không dùng kháng retrovirus, giảm nhẹ mật độ khoáng xương ở hông và cột sống đã được ghi nhận ở 2 nhóm điều trị. Giảm mật độ khoảng ở xương cột sống và thay đổi cấu trúc sinh học của xương tăng đáng kể trong nhóm bệnh nhân sử dụng tenofovir disoproxil fumarat trong nghiên cứu 144 tuần. Giảm mật độ khoảng ở xương hông tăng đáng kể ở nhóm bệnh nhân này trong 96 tuần. Tuy nhiên, không tăng rủi ro gây xương hoặc có bằng chứng bất thường tương ứng trên lâm sàng sau 144 tuần. Nếu nghi ngờ có các bất thường về xương, cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc có kinh nghiệm.
Tenofovir disoproxil fumarat nên được tránh sử dụng trong những bệnh nhân đã từng điều trị kháng retrovirus với chúng tiềm ẩn đột biến K6SR Tenofovir disoproxil furnarat chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân trên 65 tuổi. Bệnh nhân cao tuổi thường hay bị suy thận, do vậy cần thận trọng khi sử dụng tenofovir disoproxil fumarat cho đối tượng này.
Bệnh gan: Tenofovir disoproxil fumarat không bị chuyển hóa bởi các enzym gan. Một nghiên cứu dược động học đã được thực hiện trên các bệnh nhân không nhiễm HIV với các mức độ suy gan khác nhau. Không có sự thay đổi được động học đáng kể được ghi nhận ở các bệnh nhân này.
Đợt bùng phát viêm gan.
Đợt bùng phát trong khi điều trị: Đợt bùng phát trong viêm gan B mãn tính tương đối phổ biến và đặc trưng bởi tăng thoáng qua ALT trong huyết thanh. Sau khi bắt đầu điều trị kháng virus, ALT huyết thanh có thể tăng ở một vài bệnh nhân bởi vì sự giảm nồng độ HBV DNA trong huyết thanh.
Trong số các bệnh nhân dùng tenofovir điều trị đợt bùng phát có thể xảy ra trong khi điều trị sau 4-8 tuần. Ở bệnh nhân cơ năng gan được bù trừ, tăng nồng độ ALT trong huyết thanh thường không đi kèm với tăng nồng độ bilirubin trong huyết thanh hoặc sự mất bù chức năng gan. Bệnh nhân xơ gan có thể có nguy cơ viêm gan mất bù sau đợt bùng phát viêm gan, và vì vậy nên theo dõi chặt chẽ trong quá trình điều trị.
Đợt bùng phát sau khi ngừng điều trị: Viêm gan cấp trầm trọng cũng được báo cáo ở bệnh nhân ngừng điều trị viêm gan B. Đợt bùng phát sau khi điều trị thông thường liên quan đến tăng HBV DNA, và đa số dường như tự giới hạn. Tuy nhiên, đợt bùng phát nặng bao gồm tử vong đã được báo cáo. Nên theo dõi định kỳ chức năng gan ca lâm sàng và labo tiếp theo ít nhất 6 tháng sau khi ngừng điều trị viêm gan B. Nếu đáp ứng, có thể bắt đầu điều trị lại viêm gan B. Ở bệnh nhân bị bệnh gan đang tiến triển hoặc xơ gan, ngừng điều trị không được khuyến nghị bởi vì đợt bùng phát viêm gan có thể dẫn đến mất bù chức năng gan.
Đợt bùng phát viêm gan đặc biệt nghiêm trọng, và đôi khi gây chết người ở bệnh nhân chức năng gan mất bù.
Đồng thời bị viêm gan C hoặc D: Không có dữ liệu về hiệu quả của tenofovir ở bệnh nhân đồng thời bị viêm gan C hoặc D. Đồng thời bị HIV-1 và viêm gan B Do nguy cơ phát triển kháng HIV, tenofovir disoproxil fumarat chỉ nên sử dụng như là một phần của chế độ điều trị thích hợp retroviral ở bệnh nhân đồng thời bị viêm gan B và HIV.
Bệnh nhân suy gan trước đây bao gồm viêm gan mãn tính tăng mức độ bất thường chức năng gan trong khi kết hợp điều trị retroviral và nên được theo dõi dựa vào thao tác chuẩn. Nếu có bằng chứng bệnh gan nặng hơn ở những bệnh nhân này, gián đoạn hoặc ngưng điều trị nên được xem xét. Tuy nhiên, lưu ý rằng tăng ALT có thể là một phần của thanh thải HBV trong khi điều trị với tenofovir.
Nhiễm acid lactic:
Nhiễm acid lactic, thường kết hợp với bệnh gan nhiễm mỡ, đã được báo cáo khi sử dụng các thuốc tương tự nucleosid. Các dữ liệu tiền lâm sàng và lâm sàng cho thấy nguy cơ rủi ro xảy ra nhiễm acid lactic, một loại tác động của các thuốc tương tự nucleosid, nguy cơ này thấp với tenofovir disoproxil fumarat. Tuy nhiên do tenofovir có cấu trúc liên quan đến các thuốc tương tự nucleosid, nguy cơ này không thể bị loại trừ các triệu chứng sớm (tăng lactat huyết triệu chứng) bao gồm các triệu chứng tiêu hóa (buồn nôn, nôn và đau bụng), khó chịu không đặc hiệu, mất cảm giác ngon miệng, giảm cân, các triệu chứng hô hấp (thở nhanh và/hoặc thở sâu) hoặc các triệu chứng thần kinh (bao gồm khả năng kém điều khiển máy móc). Nhiễm acid lactic có thể gây tử vong cao và có thể liên quan đến viêm tụy, suy gan hoặc suy thận.
Nhiễm acid lactic thường xảy ra sau vài tháng điều trị.
Điều trị với các thuốc tương tự nucleosid nên ngừng khi có các triệu chứng tăng lactat máu và nhiệm lactic chuyển hóa, tiến triển to gan, hoặc tăng nhanh nồng độ các aminotransferase.
Cần thận trọng khi điều trị các thuốc tương tự nucleosid cho bất cứ bệnh nhân nào (đặc biệt phụ nữ béo phì) với chứng gan to, viêm gan hoặc các yếu tố rủi ro khác đã biết về bệnh gan và chứng gan nhiễm mỡ (bao gồm một số loại thuốc và rượu). Bệnh nhân đồng thời nhiễm viêm gan C được điều trị với alpha interferon và ribavin có thể gặp các nguy cơ rủi ro đặc biệt.
Các bệnh nhân có khả năng tăng các nguy cơ rủi ro nên được theo dõi chặt chẽ.
Liệu pháp kết hợp kháng retrovirus liên quan đến sự tái phân bố chất béo (loạn dưỡng lipid) trong cơ thể bệnh nhân nhiễm HIV. Các kết quả nghiên cứu kéo dài về các trường hợp này hiện nay chưa được biết. Cơ chế của việc này cũng chưa rõ ràng. Đã có giả thuyết về một sự liên hệ giữa sự tích mỡ trong nội tạng và sự ức chế protease và sự tiêu mỡ và sự ức chế sao chép ngược nucleosid. Nguy cơ loạn dưỡng lipid cao liên quan đến một số yếu tố đặc biệt như tuổi già, các yếu tố liên quan đến thuốc như điều trị kéo dài kháng retrovirus và liên quan đến rối loạn chuyển hóa. Các xét nghiệm lâm sàng nên bao gồm đánh giá các dấu hiệu thực thể của sự tái phân bổ mô mỡ trong cơ thể. Cân nhắc đến việc kiểm tra nhanh nồng độ lipid trong huyết thanh và glucose trong máu. Rối loạn lipid nên được xử trí thích hợp tùy lâm sàng.
Tenofovir có cấu trúc liên quan đến các thuốc tương tự nucleosid do đó nguy cơ rủi ro rối loạn lipid không thể loại trừ. Tuy nhiên, các dữ liệu của 1 nghiên cứu lâm sàng 144 tuần với bệnh nhân không dùng kháng retrovirus cho thấy nguy cơ rối loạn lipid với tenofovir disoproxil fumarat thấp hơn với stavudin khi kết hợp điều trị với lamivudin và enfavirenz.
Các thuốc tương tự nucleosid và nucleotid đã được chứng minh trong in vitro và in vivo gây ra tổn thương các ty lạp thể ở nhiều mức độ khác nhau.
Đã có các báo cáo về rối loạn ty lạp thể ở những đứa trẻ không bị nhiễm HIV trong tử cung và những trẻ sơ sinh do các thuốc tương tự nucleosid.
Các tác dụng có hại được báo cáo chủ yếu là rối loạn máu (thiếu máu, giảm bạch cầu trung tính), rối loạn chuyển hóa (tăng lactat huyết, tăng lipase huyết). Các hiện tượng này thường thoáng qua. Một số rối loạn thần kinh muộn đã được báo cáo (tăng trương lực, co giật, hành vi bất thường). Hiện chưa biết các rối loạn này sẽ thoáng qua hay kéo dài. Thai nhi trong tử cung người mẹ đã sử dụng các thuốc tương tự nucleosid, thậm chí cà thai nhi không bị nhiễm HIV, nên được theo dõi cả lâm sàng và xét nghiệm, và cũng nên kiểm tra khả năng rối loạn nhiễm sắc thể khi có các triệu chứng và dấu hiệu có liên quan. Các kết quả này hiện tại không ảnh hưởng đến các khuyến cáo khi sử dụng liệu pháp kháng retrovius cho phụ nữ có thai để ngăn lây truyền từ mẹ sang con.
Hội chứng phản ứng miễn dịch:
Với bệnh nhân nhiễm HIV suy giảm miễn dịch tại thời điểm thiết lập liệu pháp kết hợp kháng retrovirus (CART), phản ứng viêm không có triệu chứng hoặc các mầm bệnh cơ hội có thể phát sinh và gây ra các tình trạng nghiêm trọng trên lâm sàng hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng Các phản ứng như vậy thường xảy ra trong vòng một vài tuần hay vài tháng đầu thiết lập CART. Ví dụ như viêm võng mạc do cytomegalovirus, nhiễm trùng trực khuẩn lao phổ biến và/hoặc cục bộ, và viêm phổi do Pneumocystis carini. Bất kỳ triệu chứng viêm nào nên được đánh giá và điều trị thay thế khỉ cần thiết.
Hoại tử xương: Mặc dầu căn nguyên là đa nhân tố (bao gồm sử dụng corticosteroid, sự hủy hoại của alcohol, suy yếu hệ miễn dịch nặng, chỉ số khỏi cơ thể cao), các trường hợp hoại tử xương đã được báo cáo đặc biệt ở bệnh nhân bệnh HIV đang tiến triển và/hoặc điều trị kết hợp kháng retroviral lâu dài (CART). Bệnh nhân được khuyên nên kiểm tra y tế nêu có các dấu hiệu đau nhức khớp, cứng khớp hoặc khó di chuyển.
Tác dụng không mong muốn khi dùng thuốc Tenoxil 300mg
HIV-1: Đánh giá các phản ứng có hại dựa trên các nghiên cứu tiền marketing và 2 nghiên cứu trên 653 bệnh nhân đã từng điều trị trước đó sử dụng tenofovir disoproxil fumarat (n = 443) hoặc giả dược (n = 210) trong liệu pháp kết hợp với các thuốc kháng retrovirus trong 24 tuần và cũng trong một nghiên cứu có kiểm soát so sánh mù đôi trên 600 bệnh nhân chưa từng điều trị trước đó uống tenofovir disoproxil fumarat 300 mg (n = 299) hoặc stavudin (n = 301) trong kết hợp lamivudin và enfavirenz trong 144 tuần.
Xấp xỉ 1/3 bệnh nhân có tác dụng phụ trong khi điều trị với tenofovir disoproxil fumarat kết hợp với các thuốc kháng retrovirus. Các phản ứng này thường là các phản ứng về tiêu hóa nhẹ đến trung bình.
Các tác dụng phụ còn nghi ngờ (có thể) liên quan đến việc điều trị được liệt kê bên dưới dựa vào nhóm cơ quan tỷ lệ tuyệt đối. Với mỗi nhóm, tác dụng không mong muốn được trình bày theo thứ tự giảm dần: tỷ lệ rất thường xuyên (≥1/10), thường xuyên (≥ 1/100, < 1/10), không thường xuyên (≥ 1/1000, < 1/100), hiếm (≥1/10.000, <1/1000), hoặc rất hiếm </10 000), bao gồm các báo cáo có liên quan, hoặc không biết ( xác định qua giám sát an toàn tiền marketing và tỷ lệ ước tính từ các dữ liệu sản có).
Chuyển hóa và dinh dưỡng:
Rất thường xuyên: giảm phosphat huyết.
Hệ thần kinh trung ương
Rất thường xuyên: hoa mắt
Hệ tiêu hóa:
Rất thường xuyên tiêu chảy, buồn nôn, nôn.
Xấp xỉ 1% bệnh nhân điều trị tenofovir disoproxil fumarat phải ngừng điều trị do các tác dụng phụ đường tiêu hóa.
Liệu pháp kết hợp các thuốc kháng retrovirus có liên quan đến bất thường chuyển hóa như tăng triglycerid máu, tăng cholesterol máu, kháng insulin, tăng glucose máu và tăng lactat máu.
Liệu pháp kết hợp các thuốc kháng retrovirus có liên quan tới phân bố chất béo trong cơ thể (loạn dưỡng lipid) trên bệnh nhân nhiễm HIV bao gồm cả nhiễm mỡ dưới da mặt và ngoại biên, tăng mỡ trong ổ bụng và nội tạng, phì đại tuyến vú và tích lũy mỡ ở phần lưng hông (bướu lưng).
Trong 1 nghiên cứu có kiểm soát 144 tuần cho bệnh nhân chưa từng điều trị thuốc kháng retrovirus trước đó so sánh tenofovir disoproxil fumarat với stavudin trong kết hợp với lamivudin và enfavirenz, các bệnh nhân uống tenofovir disoproxil fumarat có tỷ lệ loạn dưỡng lipid thấp hơn so với nhóm bệnh nhân sử dụng stavudin. Tenofovir disoproxil fumarat cũng gây tăng triglycerid nhanh và tổng cholesterol trung bình ít hơn stavudin.
Với bệnh nhân nhiễm HIV suy giảm miễn dịch tại thời điểm thiết lập liệu pháp kết hợp thuốc kháng retrovirus (CART), phản ứng viêm không có triệu chứng hoặc bội nhiễm cơ hội có thể phát sinh.
Đã có báo cáo về các trường hợp hoại tử xương khi thiết lập liệu pháp kết hợp kháng retrovirus (CART), đặc biệt với bệnh nhân đã biết trước các nguy cơ rủi ro, gây tiến triển tình trạng HIV hoặc tích lũy thuốc kéo dài.
Tỷ lệ về trường hợp này chưa được biết.
Viêm gan B
Đánh giá phản ứng có hại từ nghiên cứu lâm sàng dựa trên kinh nghiệm ở hai nghiên cứu mù đôi có kiểm soát so sánh trên 641 bệnh nhân viêm gan B mãn tính và cơ năng gan được bù trừ tiếp nhận điều trị với tenofovir disoproxil 245mg (dạng fumarat) hằng ngày (n= 426) hoặc adefovir dipivoxil 10mg hằng ngày (n=235) trong 48 tuần.
Các tác dụng phụ còn nghi ngờ (có thể) liên quan đến việc điều trị được liệt kê bên dưới dựa vào nhóm cơ quan tỷ lệ tuyệt đối. Với mỗi nhóm, tác dụng không mong muốn được trình bày thường xuyên (≥1/100, <1/10).
Rối loạn hệ thần kinh trung ương
Thường xuyên: nhức đầu.
Rối loạn hệ tiêu hóa:
Thường xuyên tiêu chảy, nôn, đau bụng, buồn nôn, căng bụng, đầy hơi.
Rối loạn hệ gan mật:
Thường xuyên, tăng ALT.
Rối loạn thông thường và nơi dùng:
Thường xuyên: mệt mỏi.
Đợt cập trong quá trình điều trị:
Ở nghiên cứu trên bệnh nhân chưa dùng nucleoside, tăng ALT trong điều trị> 10 lần ULN (giới hạn trên bình thường) và>2 lần mức bình thường xảy ra ở 2,6% bệnh nhân được điều trị với tenofovir disoproxil fumarat ngược lại 1,9% ở bệnh nhân điều trị với adefovir dipivoxil. Trong số các bệnh nhân được điều trị với tenofovir disoproxil fumarat, tăng ALT trong khi điều trị có thời gian ở giữa sau khi bắt đầu đợt tấn công 8 tuần, nếu tiếp tục điều trị, đa số các trường hợp có giảm a ≥ 2 log18copies/ml lượng vi rút trong máu trước khi hoặc cùng lúc với việc tăng ALT Giám sát định kỳ chức năng gan được khuyến nghị trong thời gian điều trị.
Ngoài các phản ứng phụ báo cáo từ thử nghiệm lâm sàng, các tác dụng phụ sau có thể được nhận thấy trong thời gian giám sát tính an toàn sau khi đưa ra thị trường của tenofovir disoproxil fumarat. Tần số được định nghĩa như sau hiếm (≥1/10,000, <1/1,000) hoặc rất hiểm (<1/10,000) bao gồm các báo cáo liên quan. Bởi vì những tác dụng phụ này được báo cáo tự phát từ những cỡ dân số không xác định và ước tính tần số không lúc nào cũng thực hiện được.
Chuyển hóa và dinh dưỡng
Hiếm: nhiễm acid lactic.
Rối loạn trung thất, ngực và hô hấp:
Rất hiếm: khó thở.
Rối loạn hệ tiêu hóa:
Hiếm: viêm tụy.
Rối loạn gan mật:
Hiếm: tăng transaminase
Rất hiếm: viêm gan.
Da và tổ chức dưới da:
Hiếm: ban đỏ
Rối loạn cơ xương khớp:
Không rõ: bệnh cơ, nhuyễn xương (cả 2 liên quan đến bệnh ống thận gần)
Thận và tiết niệu:
Hiếm: suy thận, suy thận cấp, bệnh ống thận gần (bao gồm cả hội chứng Fanconi), tăng creatinin.
Rất hiếm: hoại tử ống thận cấp.
Không rõ: viêm thận (bao gồm viêm thận kẽ cấp), đái tháo đường do thận.
Các rối loạn chung:
Rất hiếm: suy nhược. Xấp xỉ 1% bệnh nhân điều trị tenofovir disoproxil fumarat phải ngừng điều trị do các tác dụng phụ đường tiêu hóa.
Liệu pháp kết hợp các thuốc kháng retrovirus có liên quan đến bất thường chuyển hóa như tăng triglycerid máu, tăng cholesterol máu, kháng insulin, tăng glucose máu và tăng lactat máu.
Liệu pháp kết hợp các thuốc kháng retrovirus có liên quan tới phân bố chất béo trong cơ thể (loạn dưỡng lipid) trên bệnh nhân nhiễm HIV bao gồm cả nhiễm mỡ dưới da mặt và ngoại biên, tăng mỡ trong ổ bụng và nội tạng, phì đại tuyến vú và tích lũy mỡ ở phần lưng hồng(bướu lưng).
Trong 1 nghiên cứu có kiểm soát 144 tuần cho bệnh nhân chưa từng điều trị thuốc kháng retrovirus trước đó so sánh tenofovir disoproxil fumarat với stavudin trong kết hợp với lamivudine và enfavirenz, các bệnh nhân uống tenofovir disoproxil fumarat có tỷ lệ loạn dưỡng lipid thấp hơn so với nhóm bệnh nhân sử dụng savudin. Tenofovir disoproxil fumarat cũng gây tăng triglycerid nhanh và tổng cholesterol trung bình ít hơn stavudine.
Với bệnh nhân nhiễm HIV suy giảm miễn dịch tại thời điểm thiết lập liệu pháp kết hợp thuốc kháng retrovirus (CART), phản ứng viêm không có triệu chứng hoặc bội nhiễm cơ hội có thể phát sinh.
Đã có báo cáo về các trường hợp hoại tử xương khi thiết lập liệu pháp kết hợp kháng retrovirus (CART), đặc biệt với bệnh nhân đã biết trước các nguy cơ rủi ro, gây tiến triển tình trạng HIV hoặc tích lũy thuốc kéo dài.
Tỷ lệ về trường hợp này chưa được biết.
Thông báo cho bác sĩ các tác dụng phụ gặp phải khi dùng thuốc.
Tương tác thuốc và các dạng tương tác khác
Các nghiên cứu tương tác thuốc chỉ được thực hiện trên người lớn.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu in vitro và quá trình chuyển hóa đã biết của tenofovir, cho thầy tenofovir có thể tương tác với thuốc khác qua hệ thống CYP450 liên quan giữa tenofovir và các thuốc khác.
TENOXIL không nên dùng chung với adefovir dipivoxil.
Tenofovir được lọc ở cầu thận, bài tiết qua thận và bài tiết tích cực nhờ các yếu tố vận chuyển anion hữu cơ (HOAT1) Kết hợp điều trị tenofovir disoproxil fumarat với các thuốc khác cũng được bài tiết tích cực qua thận nhờ yếu tố hOAT1 (như cidofovir) có thể gây tăng nồng độ Tenofovir hoặc của thuốc được điều trị kết hợp.
Kết hợp với các thuốc kháng retrovirus khác:
Entricitabin, lamivudin, indinavir, enfavirenz, nelfinavir và saquinavir (dẫn chất của ritonavir) kết hợp điều trị với tenofovir disoproxil fumarat không gây tương tác có giá trị trên lâm sàng.
Khi tenofovir disoproxil fumarat được sử dụng kết hợp với lopinavirritonavir, không có sự thay đổi về dược động học của lopinavir và ritonavir được ghi nhận. AUC của tenofovir tăng xấp xỉ 30% khi tenofovir disoproxil fumarat được sử dụng kết hợp với lopinavir/ritonavir. Nồng độ tenofovir cao hơn có liên quan đến tác dụng có hại của tenofovir, bao gồm cả rối loạn thần.
Khi didanosin được uống trước 2 giờ hoặc đồng thời cũng tenofovir disoproxil fumarat, AUC của Midanosin tăng trung bình lần lượt là 48% và 60%. AUC trung bình của didanosin tăng 44% khi dùng trước tenofovir 1 giờ. Trong cả 2 trường hợp các thông số dược động học của tenofovir sử dụng đều có thay đổi. Do vậy không nên kết hợp tenofovir disoproxil fumarat và didanosin.
Khi tenofovir disoproxil fumarat được sử dụng cùng atalanavir, giảm nồng độ atakanavir được ghi nhận (giảm lần lượt 25% và 40% AUC và Cmin với hàm lượng atazanavir là 400 mg). Khi ritonavir kết hợp với atazanavir, không có ảnh hưởng của tenofovir lên atazanavir, Cmin giảm nhẹ, trong khi AUC giảm tương tự như trường hợp trên ( giảm lần lượt 25% và 26% AUC và Cmin với liều 300/100 mg). Kết hợp datazanavirritonavir với tenofovir disoproxil fumarat gây tăng tích lũy tenofovir. Nồng độ tenofovir cao hơn có liên quan đến tác dụng có hại của tenofovir, bao gồm cả rối loạn thận. Kết hợp điều trị atazanavir/ritonavir với tenofovir disoproxil fumarat đã được chứng minh qua 1 nghiên cứu lâm sàng.
Các tương tác khác:
Kết hợp tenofovir disoproxil fumarat, với methazon, ribavirin, ifampicin, adefovir dipivoxil hoặc các học môn tránh thai chứa norgestimat/ethinyl estradiol không gây tương tác dược động học.
Tenofovir disoproxil fumarat được uống cùng thức ăn, do thức ăn làm tăng sinh khả dụng của tenofovir.
Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú
Phụ nữ có thai:
Không có các thông tin lâm sàng về việc sử dụng tenofovir disoproxil fumarat trên người mang thai.
Các nghiên cứu trên động vật không chỉ ra trực tiếp hoặc gián tiếp các tác hại của tenofovir disoproxil fumarat cho người mang thai, sự phát triển của thai nhi, quá trình sinh đẻ hoặc sự phát triển của trẻ sơ sinh.
Tenofovir disoproxil fumarat chỉ nên sử dụng trong thời kỳ mang thai nêu lợi ích mang lại cao hơn nguy cơ rủi ro cho thai nhi.
Tuy các rủi ro cho thai nhi chưa được biết, việc sử dụng tenofovir disoproxil fumarat cho người có khả năng mang thai phải được kết hợp với các biện pháp tránh thai hiệu quả.
Phụ nữ cho con bú:
Các nghiên cứu trên động vật cho thấy tenofovir được bài tiết qua sữa.
Không biệt tenofovir có được bài tiết qua sữa người hay không. Do vậy người đang dùng tenofovir không nên cho con bú.
Một nguyên tắc chung, những người phụ nữ bị nhiễm HIV không nên cho con bú để tránh lây truyền HIV cho đứa trẻ.
Ảnh hưởng của thuốc tới khả năng lái xe và vận hành máy móc
Ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc: Không có các nghiên cứu về ảnh hưởng của thuốc đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.
Tuy nhiên bệnh nhân nên được thông báo rằng hiện tượng hoa mắt có thể xảy ra trong quá trình sử dụng tenofovir.
Quá liều và cách xử trí
Nếu quá liều xảy ra, bệnh nhân phải được theo dõi chặt chẽ và các biện pháp hỗ trợ cần thiết.
Tenofovir có thể loại bỏ qua thẩm tách máu, độ thanh thải trung bình của tenofovir qua thẩm tách máu khoảng 134 ml/phút.
Đào thải tenofovir bằng thẩm tách phúc mạc vẫn chưa được nghiên cứu.
Hạn dùng và bảo quản Tenoxil 300mg
BẢO QUẢN: Bảo quản dưới 30°C, nơi khô ráo. Tránh ánh sáng.
HẠN DÙNG: 36 tháng kể từ ngày sản xuất.
Nguồn gốc, xuất xứ Tenoxil 300mg
NHÀ SẢN XUẤT: HETERO LABS LIMITED
Unit-111, 22-110, IDA, Jeedimetla, Hyderabad -500055, Andhra Pradesh, Ấn Độ.
Dược lực học
Tenofovir disoproxil fumarat là một acyclic nucleosid phosphonat diester tương tự adenosin monophosphat. Ban đầu tenofovir disoproxil fumarat cần đến quá trình thủy phân để chuyển thành tenofovir và sau đó phophoryl hóa bởi enzym thuộc tế bào chuyển thành tenofovir diphosphat Tenofovir diphosphat ức chế hoạt tính enzym sao chép ngược HIV-1 bằng cách thay thế chất nền tự nhiên deoxyadenosin 5′, và kết thúc chuỗi DNA sau khi hợp nhất vào DNA.
Tenofovir diphosphat ức chế yêu DNA polymerase, ở động vật có vú và DNA polymerase ty thể.
Dược động học
Hấp thu:
TENOXIL tan trong nước tạo thành dạng diester của hoạt chất tenofovir disoproxil fumarat Sinh khả dụng đường uống lúc đói của tenofovir disoproxil fumarat xấp xỉ 25%. Sau khi uống đơn liệu TENOXIL ở bệnh nhân bị HIV-1 lúc bụng đói, nồng độ định của thuốc trong huyết thanh đạt được sau khoảng 1 + 0,4 giờ Cmax và AUC là 296 ± 90 ng/mL và 2287 ± 685 ng/mL giờ, theo thứ tự.
Đặc tính dược động của tenofovir disoproxil fumarat thể hiện ở liều TENOXIL khoảng từ 75 đến 600 mg và không có tác dụng ở liều lặp lại.
Phân bố:
Trong thử nghiệm in vitro sự gắn kết của tenofovir disoproxil fumarat với huyết thanh hoặc protein huyết tương người nhỏ hơn 0,7 và 7,2%, theo thứ tự, nồng độ tenofovir disoproxil fumarat thay đổi từ 0,01 tới 25 μg/mL.
Thể tích phân bố ở nồng độ đỉnh là 1,3 ± 0,6L/kg và 1,2 ± 0,4 L/kg, và dùng đường tiêm tĩnh mạch tenofovir disoproxil fumarat là 1,0 mg/kg và 3,0 mg/kg.
Chuyển hóa và thải trừ:
Trong thử nghiệm in vitro cho thấy cả tenofovir disoproxil và tenofovir đều là chất nền của enzymCYP450.
Sau khi tiêm tĩnh mạch tenofovir, khoảng 70-80% liều được tìm thấy trong nước tiểu ở dạng chưa chuyển hóa tenofovir disoproxil fumarat trong vòng 72 giờ.
Sau khi uống đơn liều TENOXIL, thời gian bán thải của tenofovir disoproxil fumarat khoảng 17 giờ. Sau khi uống đa liều TENOXIL mỗi lần/ngày (trong điều kiện nhịn đói), 32 ± 10% liều được tìm thấy trong nước tiểu trên 24 giờ.
Tenofovir được thải trừ bằng việc kết hợp lọc qua cầu thận và bài tiết qua ống thận. Vì thế có sự cạnh tranh đào thải với những chất cũng bài tiết qua thận.
Chưa có đánh giá nào.