Xem thêm
Myfortic được chỉ định dùng phối hợp với ciclosporin dạng vi nhũ tương và corticosteroid để dự phòng sự thải loại mảnh ghép cấp tính ở bệnh nhân ghép thận dị gen.
Cách dùng – liều dùng của thuốc Myfortic 360mg
Liều lượng:
Liều được khuyến cáo là 720 mg (4 viên Myfortic không tan trong dạ dày loại 180 mg hoặc 2 viên loại 360 mg), ngày 2 lần (liều mỗi ngày 1.440 mg). Ở bệnh nhân đang dùng mycophenolate mofetil (MMF) 2 g, việc điều trị có thể được thay bằng 720 mg Myfortic ngày 2 lần (liều mỗi ngày 1.440 mg).
Đối tượng mục tiêu chung: Việc điều trị với Myfortic cần được bắt đầu và duy trì bởi các chuyên gia về cấy ghép có trình độ thích hợp.
Việc điều trị với Myfortic cần được bắt đầu điều trị ở bệnh nhân mới ghép trong vòng 48 giờ sau khi cấy ghép.
Myfortic có thể được uống cùng với thức ăn hoặc không.
Đối tượng đặc biệt
+ Suy thận: Không cần phải điều chỉnh liều ở bệnh nhân đang trải qua thời kỳ chức năng thận ghép chậm hoạt động sau phẫu thuật (xem mục Dược động học). Bệnh nhân bị suy thận mạn tính nặng (tốc độ lọc cầu thận < 25mL/phút/1,73m2) cần được theo dõi cẩn thận.
+ Suy gan: Không cần phải điều chỉnh liều đối với bệnh nhân ghép thận bị bệnh nhu mô gan nặng.
+ Trẻ em: Tính an toàn và hiệu quả ở bệnh nhi còn chưa được xác định. Các tài liệu dược động học hiện có đối với các bệnh nhi ghép thận còn hạn chế (xem mục Cơ chế tác dụng, Dược động học).
+ Người cao tuổi: Không cần phải điều chỉnh liều trong nhóm các bệnh nhân này.
Điều trị trong các đợt thải loại: Việc thải loại thận ghép không làm thay đổi dược động học của acid mycophenolic (MPA) nên không cần giảm liều hoặc ngừng dùng Myfortic.
Cách dùng:
Không nên nghiền nát viên thuốc Myfortic để duy trì tính nguyên vẹn của màng bao tan trong ruột (xem phần Cơ chế tác dụng, Dược động học).
Không dùng thuốc Myfortic 360mg trong trường hợp sau
Voriole 200
Voriole 200 là thuốc gì ?
Thuốc Voriole 200 của MSN...
4.333.300₫
Myfortic chống chỉ định ở bệnh nhân mẫn cảm với natri mycophenolat, acid mycophenolic hoặc mycophenolate mofetil hoặc với bất cứ tá dược nào.
Cảnh báo và thận trọng khi dùng thuốc Myfortic 360mg
Thuốc này chỉ dùng theo sự kê đơn của bác sĩ.
Bệnh nhân bị thiếu hụt hypoxanthin-guanin-phosphoribosyl-transferase (HGPRT) di truyền hiếm gặp: Myfortic là một chất ức chế IMPDH (inosin monophosphat dehydrogenase). Do đó, về mặt lý thuyết, cần tránh dùng cho bệnh nhân bị thiếu hụt hypoxanthin-guanin-phosphoribosyl-transferase (HGPRT) do di truyền hiếm gặp như hội chứng Lesch-Nyhan và Kelly-Seegmiller.
Phụ nữ có khả năng mang thai (WOCBP), có thai và nuôi con bú: Dùng Myfortic trong khi có thai thường làm tăng nguy cơ sẩy thai bao gồm sẩy thai tự nhiên và dị dạng bẩm sinh. Việc điều trị Myfortic không nên bắt đầu ở phụ nữ có khả năng mang thai cho đến khi có kết quả xét nghiệm thai âm tính. Thông tin về dùng thuốc trong khi có thai và cần phải ngừa thai, xem mục Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú.
Không nên dùng Myfortic trong quá trình nuôi con bú (xem mục Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú).
Các bệnh ác tính: Bệnh nhân điều trị các thuốc ức chế miễn dịch phối hợp bao gồm cả Myfortic làm tăng nguy cơ phát triển các u lympho và các bệnh ác tính khác, đặc biệt là ở da (xem mục Tác dụng ngoại ý). Nguy cơ xuất hiện có liên quan đến cường độ và thời gian dùng thuốc ức chế miễn dịch hơn là do dùng một chất đặc trưng nào. Lời khuyên chung để làm giảm nguy cơ ung thư da là nên hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, đèn tử ngoại bằng cách mặc quần áo bảo hộ và dùng chất chống nắng có chỉ số bảo vệ cao.
Nhiễm khuẩn: Bệnh nhân dùng Myfortic cần được hướng dẫn là phải thông báo ngay lập tức khi có bất cứ biểu hiện nhiễm khuẩn nào, vết thâm tím bất thường, xuất huyết hoặc bất cứ biểu hiện nào của suy tuỷ xương.
Ức chế quá mức hệ miễn dịch làm tăng sự nhạy cảm với nhiễm trùng, kể cả nhiễm trùng cơ hội, nhiễm trùng gây tử vong và nhiễm trùng huyết (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Tái hoạt bệnh viêm gan B (HBV) hoặc viêm gan C (HCV) đã được báo cáo ở những bệnh nhân được điều trị ức chế miễn dịch, bao gồm cả acid Mycophenolic (MPA) dẫn chất của Myfortic và MMF. Khuyến cáo theo dõi bệnh nhân bị nhiễm về các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm của nhiễm HBV hoặc HCV hoạt động.
Những trường hợp bệnh lý chất trắng não đa ổ tiến triển (PML), đôi khi gây tử vong, đã được báo cáo ở bệnh nhân được điều trị bằng các dẫn chất MPA trong đó bao gồm cả mycophenolate mofetil và natri mycophenolate (xem phần Tác dụng ngoại ý). Những trường hợp đã báo cáo thường có các yếu tố nguy cơ bị PML gồm điều trị các thuốc ức chế miễn dịch và tổn thương chức năng miễn dịch. Ở bệnh nhân bị ức chế miễn dịch, thầy thuốc cần lưu ý đến PML trong chẩn đoán phân biệt cho bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh và nên xem xét việc hội chẩn với bác sĩ chuyên khoa thần kinh khi có chỉ định trên lâm sàng. Bệnh thận do virut Polyoma (PVAN), đặc biệt là do nhiễm virut BK, phải được tính đến trong chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch kèm theo chức năng thận bị suy (xem Tác dụng ngoại ý). Cần xem xét giảm tổng lượng thuốc ức chế miễn dịch ở bệnh nhân phát triển PML hoặc PVAN. Tuy nhiên ở những bệnh nhân cấy ghép, giảm ức chế miễn dịch có thể gây nguy cơ cho mô ghép.
Các bệnh về máu: Bệnh nhân dùng Myfortic nên được theo dõi kiểm tra các rối loạn về tạo máu (ví dụ như giảm bạch cầu trung tính hoặc thiếu máu – xem Tác dụng ngoại ý), điều này có thể liên quan đến chính MPA, dùng các thuốc phối hợp, nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc do một số kết hợp của những nguyên nhân này. Bệnh nhân dùng Myfortic phải kiểm tra công thức máu toàn phần hàng tuần trong tháng đầu điều trị, 2 lần/tháng trong tháng thứ hai và tháng thứ ba điều trị, sau đó mỗi tháng 1 lần trong năm đầu tiên. Nếu có các rối loạn về máu (ví dụ như giảm bạch cầu trung tính với tổng số bạch cầu trung tính < 1,5×103/microL hoặc thiếu máu) nên tạm ngừng hoặc ngừng hẳn việc điều trị bằng Myfortic.
Các trường hợp bị bất sản hồng cầu đơn thuần (PRCA) đã được báo cáo ở những bệnh nhân điều trị bằng các dẫn chất MPA kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác (xem phần Tác dụng ngoại ý). Cơ chế của các dẫn chất MPA gây ra PRCA chưa được biết đến; mối liên quan của các thuốc ức chế miễn dịch khác và sự kết hợp của các thuốc này trong một phác đồ điều trị ức chế miễn dịch cũng chưa được biết đến. Tuy nhiên, các dẫn chất MPA có thể gây ra các rối loạn về máu (xem phía trên). Trong một số trường hợp bị PRCA nhận thấy có sự phục hồi khi giảm liều hoặc tạm dừng trị liệu với các dẫn chất MPA. Tuy nhiên ở những bệnh nhân cấy ghép, giảm ức chế miễn dịch có thể gây nguy cơ cho mô ghép. Những thay đổi với trị liệu Myfortic trên người nhận ghép chỉ nên được tiến hành dưới sự giám sát thích hợp nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ thải mảnh ghép.
Tiêm chủng: Bệnh nhân cần được khuyên rằng trong thời gian điều trị bằng MPA thì việc tiêm chủng có thể ít hiệu quả và nên tránh tiêm vắc xin sống giảm độc lực (xem mục Tương tác thuốc). Việc tiêm chủng vắc xin cúm có thể đạt được hiệu quả. Thầy thuốc nên tham khảo hướng dẫn quốc gia về tiêm chủng vắc xin cúm.
Rối loạn dạ dày ruột: Do các dẫn chất của MPA có liên quan đến tăng tỉ lệ các tác dụng có hại trên hệ tiêu hoá, bao gồm các ca hiếm gặp loét và xuất huyết và thủng đường tiêu hoá; nên phải cẩn thận khi dùng Myfortic cho bệnh nhân đang mắc bệnh hệ tiêu hóa nặng tiến triển.
Phối hợp với các thuốc khác: Trong các thử nghiệm lâm sàng Myfortic đã được dùng phối hợp với các thuốc sau đây: globulin kháng tế bào tuyến giáp, basiliximab, ciclosporin dạng vi nhũ tương và corticosteroid. Hiệu quả và tính an toàn của Myfortic khi phối hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác chưa được nghiên cứu.
Tác dụng không mong muốn khi dùng thuốc Myfortic 360mg
Tương tác thuốc và các dạng tương tác khác
Các tương tác quan sát được từ việc sử dụng đồng thời không khuyến cáo
– Azathioprin: Không khuyến cáo dùng Myfortic đồng thời với azathioprin vì việc dùng đồng thời như vậy còn chưa được nghiên cứu (xem mục Cảnh báo).
– Vắc xin sống: Vắc xin sống không được dùng cho bệnh nhân đáp ứng miễn dịch bị tổn thương. Đáp ứng kháng thể đối với các vắc xin khác có thể bị giảm (xem mục Cảnh báo).
Các tương tác đã quan sát thấy cần được xem xét
– Aciclovir: Các nồng độ cao hơn trong huyết tương của cả MPAG (glucuronid của acid mycophenolic) và aciclovir có thể xảy ra khi có suy thận. Do đó, hai thuốc này có khả năng cạnh tranh bài tiết ở ống thận, làm tăng thêm nồng độ của cả MPAG và aciclovir. Trong tình huống này, bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận.
– Các thuốc bảo vệ dạ dày:
+ Các thuốc kháng acid chứa magie và nhôm hydroxide: Sự hấp thu natri mycophenolat bị giảm khi dùng với thuốc kháng acid. Dùng đồng thời Myfortic và thuốc kháng acid có magie và nhôm hydroxyd làm giảm 37% sự tiếp xúc của cơ thể với MPA và giảm 25% nồng độ tối đa của MPA. Cần dùng thận trọng khi phối hợp với thuốc kháng acid (chứa magie và nhôm hydroxyd) với Myfortic.
+ Các thuốc ức chế bơm proton: Ở những người tình nguyện khỏe mạnh, dùng đồng thời MMF 1.000 mg và pantoprazole 40 mg 2 lần/ngày dẫn đến giảm 27% AUC của MPA và giảm 57% Cmax của MPA. Tuy nhiên, trong cùng một nghiên cứu, không quan sát thấy những thay đổi về dược động học của MPA khi dùng đồng thời Myfortic và pantoprazole.
– Ganciclovir: Dược động học của MPA và MPAG không bị ảnh hưởng khi dùng thêm ganciclovir. Độ thanh thải của ganciclovir không thay đổi trong tình huống có tiếp xúc MPA trong điều trị. Tuy nhiên, ở bệnh nhân bị suy thận, dùng phối hợp Myfortic và ganciclovir, những khuyến cáo về liều ganciclovir là nên kiểm soát và theo dõi bệnh nhân cẩn thận.
– Tacrolimus: Trong một nghiên cứu chuyển nhóm chéo dùng calcineurin ở bệnh nhân ghép thận đã ổn định, dược động học Myfortic ở trạng thái ổn định đã được đo trong điều trị với cả Neoral và tacrolimus. AUC trung bình của MPA cao hơn 19% và Cmax thấp hơn khoảng 20%. Ngược lại, AUC trung bình của MPAG và Cmax thấp hơn khoảng 30% khi điều trị với tacrolimus so với khi điều trị Neoral.
– Ciclosporin A: Nghiên cứu ở bệnh nhân ghép thận đã ổn định, dược động học của ciclosporin A không bị ảnh hưởng bởi liều dùng ở trạng thái ổn định của Myfortic.
Các tương tác dự kiến được xem xét
– Cholestyramin và thuốc gây ảnh hưởng tuần hoàn ruột-gan: Do khả năng phong bế vòng tuần hoàn ruột-gan của thuốc, cholestyramin có thể làm giảm sự tiếp xúc toàn thân của MPA. Cần dùng thận trọng khi phối hợp cholestyramin hoặc các thuốc gây cản trở tuần hoàn ruột-gan vì có thể làm giảm hiệu lực của Myfortic.
– Thuốc tránh thai dạng uống: Các thuốc tránh thai dùng đường uống bị chuyển hoá theo con đường oxy hoá trong khi Myfortic lại chuyển hoá theo con đường glucuronid hoá. Tác dụng có ý nghĩa lâm sàng của thuốc tránh thai dạng uống trên dược động học của Myfortic không được tiên liệu trước. Tuy nhiên, vẫn chưa biết ảnh hưởng của việc dùng Myfortic lâu dài trên dược động học của các thuốc tránh thai dạng uống, có thể là hiệu quả của thuốc tránh thai dạng uống có lẽ bị ảnh hưởng theo hướng bất lợi (xem mục Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú).
Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú
Việc điều trị Myfortic không nên bắt đầu ở phụ nữ có khả năng mang thai cho đến khi có kết quả xét nghiệm thai âm tính.
Phụ nữ có khả năng mang thai phải sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả cao trước khi bắt đầu, trong quá trình điều trị Myfortic và sau 6 tuần sau khi dùng liều Myfortic cuối cùng (xem phần Tương tác thuốc).
Phụ nữ có thai: Dùng Myfortic trong thời kỳ có thai làm tăng nguy cơ dị dạng bẩm sinh. Mặc dù còn chưa có những nghiên cứu đầy đủ và có kiểm soát tốt ở phụ nữ có thai dùng Myfortic, nhưng dựa trên tài liệu của chương trình Đăng ký Quốc gia về ghép cơ quan cho người mang thai của Mỹ (NTPR), dùng mycophenolate mofetil phối hợp với thuốc ức chế miễn dịch trong thời kỳ có thai có liên quan với tăng tỷ lệ dị dạng bẩm sinh lên 22% (4 trường hợp trong số 18 trẻ sinh ra có phơi nhiễm), so với tỷ lệ 4-5% dị dạng trong số những bệnh nhân cấy ghép quan sát được ở NTPR. Các dị dạng bẩm sinh đã được báo cáo với mycophenolate mofetil gồm có bất thường tai ngoài và các bất thường khác ở mặt bao gồm khe hở môi và vòm miệng, thoát vị hoành bẩm sinh, dị thường chi dưới, tim, thực quản và thận. Việc sử dụng mycophenolate mofetil trong quá trình mang thai cũng đã được báo cáo là có liên quan đến tăng nguy cơ sẩy thai tự nhiên. Do MMF chuyển thành MPA sau khi uống hoặc tiêm tĩnh mạch, các nguy cơ nói trên cũng phải được lưu ý với Myfortic. Khả năng sinh quái thai của MPA đã được ghi nhận trong các nghiên cứu ở động vật (xem mục Dữ liệu an toàn phi lâm sàng).
Myfortic chỉ được dùng cho phụ nữ có thai nếu cân nhắc thấy lợi ích cho mẹ hơn hẳn nguy cơ cho thai. Cần hướng dẫn bệnh nhân đến khám thầy thuốc ngay nếu xảy ra có thai.
Phụ nữ nuôi con bú: Còn chưa biết liệu MPA có bài tiết được vào sữa mẹ hay không.
Không nên dùng Myfortic trong thời kỳ nuôi con bú (xem phần Cảnh báo).
Vì nhiều thuốc được bài tiết vào sữa mẹ, và vì khả năng bị các tác dụng bất lợi nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh bú mẹ/trẻ nhỏ, cần phải quyết định xem nên tránh cho con bú trong khi điều trị và trong 6 tuần sau khi ngừng điều trị hay tránh sử dụng thuốc, lưu ý tới tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ.
Bệnh nhân nam: Nam giới có khả năng hoạt động tình dục nên sử dụng bao cao su trong thời gian điều trị, và trong trọn 13 tuần sau liều Myfortic cuối cùng. Ngoài ra, bạn tình của những người đàn ông này nên sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả cao trong quá trình điều trị và trong trọn 13 tuần sau liều Myfortic cuối.
Ảnh hưởng của thuốc tới khả năng lái xe và vận hành máy móc
Quá liều và cách xử trí
Đã có các báo cáo ngẫu nhiên về quá liều vô tình hoặc cố ý với Myfortic, trong khi không phải tất cả các bệnh nhân có liên quan đến tác dụng bất lợi.
Trong những trường hợp quá liều mà có tác dụng bất lợi đã được báo cáo, các tác dụng bất lợi này rơi vào nhóm đặc tính an toàn đã biết. Quá liều Myfortic có thể gây nên sự quá ức chế hệ miễn dịch và có thể làm tăng nhạy cảm với nhiễm khuẩn bao gồm nhiễm khuẩn cơ hội, nhiễm khuẩn gây tử vong và nhiểm khuẩn huyết. Nếu xảy ra các rối loạn về máu (ví dụ như giảm bạch cầu trung tính với số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối < 1,5×103/microL hay thiếu máu), có thể tạm ngừng hoặc dừng điều trị bằng Myfortic (xem phần Cảnh báo và phần Tác dụng ngoại ý).
Mặc dù thẩm tách có thể được dùng để loại bỏ chất chuyển hoá không có hoạt tính MPAG, nhưng không chắc rằng có thể loại bỏ được những lượng có ý nghĩa về lâm sàng của một nửa số MPA có hoạt tính. Chất này chiếm một lượng lớn do sự gắn kết với protein huyết tương rất cao của MPA, 97%. Bằng cách can thiệp vào tuần hoàn ruột-gan của MPA, dùng chất liên kết với acid mật như cholestyramin có thể làm giảm sự tiếp xúc toàn thân MPA.
Hạn dùng và bảo quản Myfortic 360mg
Bảo quản ở điều kiện không quá 30oC, trong bao bì kín, tránh ẩm.
Hạn dùng: 36 tháng kể từ ngày sản xuất.
Nguồn gốc, xuất xứ Myfortic 360mg
Dược lực học
MPA ức chế sự tăng sinh của các tế bào lympho T và lympho B mạnh hơn so với các tế bào khác, vì khác với các loại tế bào khác có thể sử dụng quá trình tận dụng purin, sự tăng sinh tế bào lympho phụ thuộc chủ yếu vào sự tổng hợp mới. Như vậy, cơ chế tác dụng là bổ trợ cho các chất ức chế calcineurin, những chất can thiệp vào sự phiên mã cytokin và giữ ở trạng thái nghỉ các tế bào lympho T.
Dược động học
Hấp thu: Sau khi uống, natri mycophenolat hấp thu rất mạnh. Phù hợp theo thiết kế viên bao tan trong ruột, thời gian để nồng độ MPA đạt mức tối đa khoảng 1,5 đến 2 giờ. Những nghiên cứu in vitro chứng minh rằng dạng thuốc bao tan trong ruột của Myfortic ngăn chặn được sự giải phóng MPA trong điều kiện acid như ở trong dạ dày. Những bệnh nhân ghép thận ổn định nhờ tác dụng ức chế miễn dịch của ciclosporin dạng vi nhũ tương, sự hấp thu qua đường tiêu hoá của MPA là 93% và sinh khả dụng tuyệt đối là 72%. Dược động học của Myfortic thì tỷ lệ thuận với liều dùng và tuyến tính trong phạm vi liều đã nghiên cứu từ 180 đến 2.160 mg. So với trạng thái đói, dùng Myfortic 720 mg với một bữa ăn nhiều chất béo (55 g mỡ, 1.000 calo) không có ảnh hưởng đến sự tiếp xúc toàn thân của MPA (AUC); đó là thông số pk có liên quan nhất tới hiệu quả. Tuy nhiên, nồng độ tối đa của MPA (Cmax) giảm 33%.
Phân bố: Thể tích phân bố của MPA ở trạng thái ổn định là 50 lít. Cả hai acid mycophenolic và dạng glucuronid của acid mycophenolic đều gắn kết cao với protein, theo thứ tự là 97% và 82%. Nồng độ MPA tự do có thể tăng trong điều kiện các nơi gắn kết với protein giảm (urê huyết, suy gan, giảm albumin huyết, dùng đồng thời các thuốc cũng gắn kết cao với protein). Điều này có thể làm cho bệnh nhân có nguy cơ cao với tác dụng bất lợi có liên quan đến MPA.
Biến đổi sinh học/Chuyển hóa: Thời gian bán thải của MPA là 11,7 giờ và độ thanh thải là 8,6 lít/giờ. MPA bị chuyển hoá chủ yếu bởi glucuronyl transferase để tạo thành glucuronid phenolic của MPA, glucuronid của acid mycophenolic (MPAG). MPAG là chất chuyển hoá chủ yếu của MPA và không thấy có hoạt tính sinh học. Ở bệnh nhân ghép thận ổn định về trạng thái ức chế miễn dịch do ciclosporin dạng vi nhũ tương, khoảng 28% liều uống Myfortic được chuyển thành MPAG do sự chuyển hoá trước hệ tuần hoàn. Thời gian bán thải của MPAG dài hơn của MPA, khoảng 15,7 giờ và độ thanh thải là 0,45 lít/giờ.
Thải trừ: Mặc dù chỉ có một lượng không đáng kể của MPA có mặt trong nước tiểu (< 1,0%), đa số MPA được thải trừ trong nước tiểu dưới dạng MPAG. MPAG tiết vào mật, rồi được khử liên hợp bởi hệ vi khuẩn đường ruột. MPA sinh ra do sự khử liên hợp này lại có thể được hấp thu trở lại. Khoảng 6 đến 8 giờ sau khi dùng Myfortic, có thể đo được đỉnh thứ hai của MPA, đó là do sự tái hấp thu MPA đã được khử liên hợp.
Dược động học ở bệnh nhân ghép thận được ức chế miễn dịch do ciclosporin dạng vi nhũ tương: Được biểu thị trong bảng 1 là các thông số dược động học trung bình của MPA sau khi dùng Myfortic. Dược động học Myfortic dùng liều một lần dự đoán được dược động học dùng nhiều lần và dùng lâu dài. Trong giai đoạn sớm sau khi ghép, AUC trung bình của MPA và Cmax trung bình của MPA xấp xỉ bằng một nửa các trị số đo được lúc 6 tháng sau khi ghép. – xem Bảng 1.
Đối tượng đặc biệt
– Người suy thận: Dược động học của MPA không thay đổi trong phạm vi chức năng thận từ bình thường đến không có. Ngược lại, sự tiếp xúc MPAG tăng khi chức năng thận giảm; sự tiếp xúc MPAG cao hơn xấp xỉ 8 lần khi vô niệu. Độ thanh thải của cả MPA cả MPAG đều không bị ảnh hưởng khi thẩm tách máu. MPA tự do cũng tăng có ý nghĩa khi suy thận. Đó có thể là do sự gắn kết MPA với protein trong huyết tương giảm khi nồng độ urê trong máu tăng cao.
Người suy gan: Ở người tình nguyện bị xơ gan do rượu, quá trình glucuronid hoá MPA ở gan tương đối không bị ảnh hưởng bởi bệnh nhu mô gan. Các ảnh hưởng của bệnh gan lên quá trình này có thể phụ thuộc vào từng bệnh riêng. Tuy nhiên, bệnh gan có tổn thương chủ yếu ở mật, như xơ gan mật nguyên phát, có thể biểu hiện một tác động khác.
Trẻ em: Chưa có tài liệu về độ an toàn và hiệu quả ở trẻ em. Tài liệu dược động học hiện có về sử dụng Myfortic cho trẻ em còn hạn chế. Trong bảng trên có biểu thị trị số trung bình (SD) của các thông số dược động học MPA đối với bệnh nhi ghép thận ổn định được ức chế miễn dịch bằng ciclosporin dạng vi nhũ tương. Tính biến thiên tăng Cmax và AUC của MPA được ghi nhận ở các bệnh nhi này so với bệnh nhân người lớn được ghép thận. AUC trung bình của MPA ở liều này cao hơn khi đo ở người lớn dùng liều 720 mg Myfortic. Độ thanh thải biểu kiến trung bình của MPA khoảng 7,7 lít/giờ. Một liều Myfortic 200-300 mg/m2 có thể đạt được AUC của MPA 30-50 microgam.giờ/mL.
Giới tính: Không có sự khác nhau có ý nghĩa lâm sàng theo giới tính về dược động học của Myfortic.
Người cao tuổi: Dựa trên những tài liệu sơ bộ, sự tiếp xúc MPA không thay đổi đến mức có ý nghĩa lâm sàng theo tuổi.
Dân tộc/Chủng tộc: Dùng liều đơn 720 mg Myfortic cho 18 người Nhật Bản và người da trắng khỏe mạnh, người Nhật Bản thấp hơn người da trắng về nồng độ (AUCinf) MPA là 15% và MPAG là 22%. Nồng độ đỉnh (Cmax) của MPAG tương tự giữa 2 nhóm đối tượng, tuy nhiên, người Nhật Bản có Cmax MPA cao hơn 9.6%. Những kết quả này không cho thấy bất kỳ sự khác biệt lâm sàng có liên quan.
Chưa có đánh giá nào.